Sự nghiệp Nỗ_Nhĩ_Cáp_Xích

Thống nhất Nữ Chân

Việc hôn nhân của cha mẹ ông là nhằm mục đích liên kết giữa 2 bộ lạc lớn thuộc bộ tộc Tô Khắc Tố Hộ (蘇克素護, Suksuhu). Một người con trai của Vương Cảo là A Đài (阿台; Atai) cưới cháu gái của Giác Xương An[5]. Điều này làm ảnh hưởng chính sách chia để trị của Nhà Minh. Vì vậy, năm 1574, nhân một cớ nhỏ, Lý Thành Lương đã bắt giết Vương Cảo. A Đài phải đem gia đình bỏ trốn về Gure (Cổ Lặc trại). Do có sự can thiệp của Giác Xương An, Lý Thành Lương đành phải "tha tội" và chiêu an A Đài.

Tuy nhiên, Lý quyết định phải truy diệt A Đài và nhổ luôn "cái gai" Giác Xương An. Năm 1582, Lý kích động một tù trưởng khác là Ni Kham Ngoại Lan (尼堪外蘭, Nikan Wailan)[6] nhân cơ hội tấn công A Đài. Mặt khác, Lý vờ sai Giác Xương An dẫn con trai và các cháu dẫn đội tiên phong đến tiếp viện cho A Đài, còn mình thì dẫn quân tiếp ứng. Trước khi Giác Xương An kịp đến tiếp viện, một thuộc hạ của A Đài bị Ni Kham Ngoại Lang mua chuộc đã làm phản và giết chết A Đài. Khi Giác Xương An đến và bao vây Ni Kham Ngoại Lan thì quân Lý cũng đến tấn công để "tiêu diệt Ni Kham Ngoại Lang". Cả Giác Xương An và Tháp Khắc Thế đều bị quân Lý giết chết vì "tưởng nhầm" là người của Ni Kham Ngoại Lang[7]. Nỗ Nhĩ Cáp Xích và em trai Thư Nhĩ Cáp Tề may mắn trốn thoát được[8].

Nỗ Nhĩ Cáp Xích trở về bộ lạc nắm quyền thủ lĩnh, phái người đến Kiến Châu phủ chất vấn Minh triều lý do giết hại ông và cha. Nhằm xoa dịu sự bất mãn của bộ tộc Tô Khắc Tố Hộ, Minh triều trả lại thi thể của ông và cha của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, đồng thời "sắc thư tam thập đạo, mã tam thập thất, phong Long Hổ Tướng quân, hàm cấp Đô đốc thiêm sự"[7]. Tuy nhiên, Nỗ Nhĩ Cáp Xích bắt đầu nhận ra chân tướng sự việc kẻ thù chính của mình chính là Nhà Minh, nhưng đành nén lòng nhận sắc phong chờ cơ hội phục thù.[9]

Với danh nghĩa Long Hổ Tướng quân, Đô đốc Thiêm sự của Nhà Minh, ông thu thập bộ hạ, lấy 13 bộ giáp sắt của cha để lại trang bị, lấy danh nghĩa đánh diệt Ni Kham Ngoại Lang để khởi binh ở quê tổ Hách Đồ A Lạp. Năm 1584, ông tấn công Ni Kham Ngoại Lang ở thành Đồ Luân (Tulun), bắt được hơn 100 tù binh và thu được 30 bộ giáp sắt, tuy nhiên Ni Kham Ngoại Lang trốn thoát được sang Nga Nhĩ Hồn (Erhun). Năm 1587, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tiếp tục tấn công Nga Nhĩ Hồn, buộc Ni Kham Ngoại Lan phải trốn chạy vào lãnh địa của Lý Thành Lương. Nỗ Nhĩ Cáp Xích cho người chất vấn, buộc Lý phải giao trả Ni Kham Ngoại Lan, rồi đem xử tử để tế ông nội và cha.

Sau trận chiến tiêu diệt Ni Kham Ngoại Lan, danh tiếng của Nỗ Nhĩ Cáp Xích trong các bộ lạc Nữ Chân Kiến Châu trở nên vang dội. Với tư cách kế thừa chức vị Tả hữu vệ Chỉ huy sứ Nữ Chân Kiến Châu, Long Hổ tướng quân, Đô đốc Thiêm sự, ông thực hiện nhiều cuộc chinh phạt để thu phục các bộ lạc Kiến Châu. Một số bộ lạc khác chấp nhận quy phục. Năm 1588, các bộ lạc Kiến Châu Nữ Chân hầu hết đều dưới quyền lãnh đạo của ông.

Năm 1593, liên minh 9 bộ tộc Hải Tây Nữ Chân tấn công Kiến Châu Nữ Chân[10]. Tuy nhiên, với tài năng quân sự của mình, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã đánh tan lực lượng liên minh Hải Tây tại trận Gure, tiếp tục củng cố Kiến Châu.

Sau đó, trong vòng 10 năm, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lần lượt chinh phục các bộ tộc lớn của Hải Tây Nữ Chân. Năm 1599, bộ tộc Cáp Đạt bị tấn công và bị chinh phục năm 1603. Năm 1607, bộ tộc Huy Phát bị chinh phục, và bộ tộc Ô Lạp vào năm 1613. Các bộ tộc nhỏ khác của Hải Tây Nữ Chân và Dã Chân Nữ Chân cũng lần lược quy phục. Chỉ còn bộ tộc Diệp Hách mãi đến năm 1619 mới hoàn toàn bị khuất phục sau trận Sa Nhĩ Hử (Sarhu).

Xây dựng lại văn tự Nữ Chân

Từ thế kỷ thứ XII, người Nữ Chân đã xây dựng cho mình một dạng văn tự riêng, phỏng theo chữ Khải của người Hán nhưng theo các quy tắc chữ của người Khiết Đan. Tuy nhiên, khi người Mông Cổ tiêu diệt chính quyền Kim quốc, đã buộc người Nữ Chân phải tiến hành đồng hóa với người Mông Cổ, bao gồm cả việc sử dụng văn tự của người Mông Cổ. Cộng với việc trở lại với đời sống du mục, văn tự Nữ Chân dần bị thất truyền trong 300 năm.

Vốn là một người có kiến thức và biết chữ Hán, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã quan tâm đến việc phục hồi lại văn tự cho người Nữ Chân. Năm 1599, ông ra lệnh cho văn thần của mình là Ba Khắc Thập Ngạch Nhĩ Đức Ni (Erdeni Bagshi) và Trác Nhĩ Cố Tề Cát Cái (Dahai Jarguchi), phỏng theo chữ Mông Cổ và áp dụng quy tắc văn tự Nữ Chân cổ để xây dựng lại văn tự Nữ Chân mới.[11]

Việc thống nhất văn tự một lần nữa đã tạo nên sự thống nhất một lần nữa cho các bộ tộc Nữ Chân, giúp Nỗ Nhĩ Cáp Xích có thể huy động sức mạnh của dân tộc Nữ Chân trở nên hùng mạnh, chinh phục các quốc gia khác và xây dựng vương triều Thanh thống trị Trung Quốc 300 năm[12]. Tuy nhiên, đến đời con cháu của ông, trước sức mạnh đồng hóa của văn hóa Hán, văn tự Mãn Châu cũng dần bị mai một và ngày nay gần như thất truyền.

Chế độ Bát Kỳ

Bài chi tiết: Bát Kỳ

Thời nhà Minh, một mô hình quản lý các đơn vị hành chính ngoại biên được áp dụng, để dễ dàng kiểm soát các sắc dân vùng biên ải. Theo đó, cứ 10 người lập thành một đơn vị cơ sở, gọi là "Tập". Cứ 10 tập tạo thành một đơn vị gọi là "Trại" (100 người).

Lúc đó, dân số của các bộ lạc này còn ít, chính quyền Minh quản lý hiệu quả các bộ lạc Nữ Chân theo hình thức là "Tập-trại".

Đến thời của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, dân số Nữ Chân nhanh chóng phát triển thông qua chiến tranh hoặc liên hôn,khiến hình thức "Tập-Trại" không còn phù hợp nữa. Do đó, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xây dựng hình thức tổ chức xã hội bộ lạc mới là chế độ Bát kỳ (âm Mãn: Jakūn Gūsa).

Theo đó, mọi người Nữ Chân đều thuộc một trong 8 nhóm bộ lạc, được gọi là các "Kỳ" (gūsa). Mỗi kỳ là tập hợp của các bộ lạc, vừa là các đơn vị quân đội vừa mang tính chất dân sự.

Về bản chất, ông vẫn giữ nguyên hình thức bộ lạc, vẫn duy trì chế độ tù trưởng (người Nữ Chân gọi là Beile), nhưng căn cứ theo số lượng người Nữ Chân có trong các bộ lạc, phân chia trên cơ sở như sau:[13][14][15]

  • Cứ 300 nam giới[16] được tổ chức thành một Niru (âm Hán Việt: Ngưu Lộc). Người đầu mục của niru được gọi là Niru-i Ejen (tức Ngưu Lộc Ngạch Chân, hay Tiển Chủ, danh xưng Hán Việt là Tá Lĩnh).
  • Năm Niru hợp lại thành một Jalan (âm Hán Việt: Giáp Lạt) do một Jalan-i Ejen (Giáp Lạt Ngạch Chân, danh xưng Hán Việt là Tham Lĩnh) chỉ huy.
  • Năm Jalan sẽ hợp lại thành một đơn vị gọi là Gūsa (âm Hán Việt: Cố Sơn, danh xưng Hán Việt: Kỳ). Chỉ huy một Gūsa là một Gūsa Ejen (phiên âm Hán Việt: Cố Sơn Ngạch Chân, danh xưng Hán Việt: Đô Thống).

Ở các Gūsa quan trọng còn có thêm 2 đơn vị là Meiren (phiên âm Hán Việt: Mai Lặc), gồm 10 Niru hợp thành, do một Meiren-i Ejen (phiên âm Hán Việt: Mai Lặc Ngạch Chân) chỉ huy. Các Meiren-i Ejen sẽ giữ vai trò phụ tá cho Gūsa Ejen.

Thông thường, các Gūsa còn được đặt dưới quyền quản lý của các bối lặc (tù trưởng) thân tín của Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Các Bối lặc này được xem là có địa vị cao hơn các bối lặc khác, nên còn được gọi là các Hòa thạc Bối lặc.

Ban đầu, khi chưa hoàn toàn thống nhất các bộ tộc Nữ Chân, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tổ chức các bộ tộc thuộc quyền thành 4 Kỳ phân biệt theo màu cờ hiệu là Hoàng (Suwayan), Bạch (Sanggiyan), Hồng (Fulgiyan), Lam (Lamun). Hoàng kỳ đặt dưới quyền khống chế và điều động của ông. Lam kỳ giao cho người em Thư Nhĩ Cáp Tề. Bạch kỳ được giao cho con trai trưởng là Chử Anh và Hồng kỳ do người con trai thứ là Đại Thiện quản lý.

Về sau, khi thống nhất hoàn toàn các bộ lạc Nữ Chân, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tổ chức tăng lên bốn kỳ nữa. Các kỳ cũ được thêm danh xưng Gulu (Chính), còn các kỳ mới có thêm màu viền trên cờ hiệu là có thêm danh xưng Kubuhe (Tương), gọi là Tương Hoàng, Tương Lam, Tương Bạch, Tương Hồng[15].

Năm 1607, vì có xảy ra bất hòa, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thu binh quyền của Thư Nhĩ Cáp Tề, về sau giao lại Tương Lam kỳ lại cho con thứ của Thư Nhĩ Cáp Tề là A Mẫn.

Năm 1615, Chử Anh, con trai trưởng và là người thừa kế của ông bị gièm pha nên đã bị ông bắt giam và bức tử. Nỗ Nhĩ Cáp Xích giao lại Tương Bạch kỳ cho con trai thứ 5 là Mãng Cổ Nhĩ TháiChính Bạch kỳ giao lại cho người con trai thứ 8 là Hoàng Thái Cực. Để ngăn ngừa hành vi tương tự, Nỗ Nhĩ Cáp Xích cũng phân 2 bộ Hồng kỳ ra giao cho Đại Thiện và con trai ông ta quản lý.

Như vậy, chế độ Jakūn Gūsa về mặt quân sự là 8 cánh quân, về mặt dân sự 8 nhóm bộ tộc, phân biệt bởi hiệu cờ chỉ huy, vì vậy còn được gọi theo âm Hán Việt là Bát Kỳ, mỗi Kỳ có một màu chủ đạo riêng biệt. Đây là một hình thức quân đội dân tộc, là sự hợp nhất giữa binh và nông[17]. Đại Hãn là người thống trị tối cao của toàn Bát Kỳ cả về quân sự lẫn dân sự.[18].

Ban đầu, mỗi Kỳ kỳ có 7.500 quân, tổng cộng 8 kỳ có 6 vạn quân[19]. Về sau, thông qua việc chinh phục các bộ lạc, số lượng binh sĩ trong các Kỳ tăng dần lên. Khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích đánh thành Ninh Viễn, tổng binh lực quân Bát Kỳ huy động đã lên đến 13 vạn.

Trong Bát kỳ này lại có sự phân chia thứ bậc nhất định:

  • Đại hãn trực tiếp nắm giữ Chính Hoàng kỳ và Tương Hoàng Kỳ, Chính Lam kỳ, hợp xưng là "Thượng Tam Kỳ" (上三旗)[20]. Chỉ những người Nữ Chân thuộc Thượng Tam Kỳ mới được đích thân Đại Hãn lựa chọn vào đội bảo vệ riêng của mình.
  • Những kỳ còn lại được gọi là "Hạ Ngũ Kỳ" (下五旗) và được giao cho các Bối lặc thân tín của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, thay mặt Đại hãn nắm quyền quản lý, và thường được gọi theo nghi thức là "Hòa thạc" (Hošoi, trong tiếng Mãn có nghĩa là "người được đặc biệt tôn kính). Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội, phụ tá cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích, được gọi là "Hòa thạc Bối lặc" (Hošoi Beile).

Tuy nhiên, quy chế này mãi đến đời con ông là Hoàng Thái Cực mới chế định rõ ràng.

Danh sách các Kỳ như sau:

Danh xưngCờ hiệuChữ MãnÂm MãnChữ Mông Cổ
(chữ cái Kirin)
Phân loại
Tương Hoàng kỳKubuhe Suwayan-i GūsaХөвөөт Шар ХошууThượng Tam kỳ
Chính Hoàng kỳGulu Suwayan-i GūsaШүлүүн Шар ХошууThượng Tam kỳ
Chính Bạch kỳGulu Sanggiyan-i GūsaШүлүүн Цагаан ХошууBan đầu thuộc Hạ Ngũ kỳ,

về sau chuyển thuộc Thượng Tam kỳ

Chính Hồng kỳGulu Fulgiyan-i GūsaШүлүүн Улаан ХошууHạ Ngũ kỳ
Tương Bạch kỳKubuhe Sanggiyan-i GūsaХөвөөт Цагаан ХошууHạ Ngũ kỳ
Tương Hồng kỳFubuhe Fulgiyan GūsaХөвөөт Улаан ХошууHạ Ngũ kỳ
Chính Lam kỳGulu Lamun-i GūsaШүлүүн Хөх ХошууBan đầu thuộc Thượng Tam kỳ,

về sau chuyển thuộc Hạ Ngũ kỳ.

Tương Lam kỳKubuhe Lamun-i GūsaХөвөөт Хөх ХошууHạ Ngũ kỳ

Nỗ Nhĩ Cáp Xích là thống soái tối cao của Bát Kỳ. Con cháu của ông ta là thủ lĩnh của mỗi một Kỳ. Mỗi Kỳ Chủ phải trực tiếp nghe theo mệnh lệnh của Đại Hãn, quyền lực và địa vị chỉ thấp hơn Đại Hãn mà cao hơn tất cả mọi người. Điều đặc biệt là những vị tướng lãnh đạo dưới trướng của ông không phải theo kiểu cha truyền con nối một cách đương nhiên (mặc dù tất cả đều là con cháu của ông) mà do chính ông bổ nhiệm trên cơ sở tài năng và chiến công. Các bộ lạc thành viên trong tất cả các Kỳ không nắm giữ tất cả một vùng, hay không chiến đấu thành đơn vị hợp nhất. Khi yêu cầu một cuộc hành quân, thì được thiết lập dưới các kỳ khác nhau. Những sự phân chia này chủ yếu hạn chế nguy cơ các bộ lạc ly khai hay không tuân lệnh.[15]

Lên ngôi Đại hãn

Thẩm Dương

Năm 1601, sau khi thống nhất Kiến Châu, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã cử người đến Bắc Kinh triều cống Nhà Minh. Tuy nhiên, thông qua việc triều cống này, ông cũng nhận ra được tình hình rối ren của triều đình Nhà Minh, càng đẩy nhanh việc thống nhất Nữ Chân để chuẩn bị phục thù. Năm 1603, ông cho xây dựng Hách Đồ A Lạp để trở thành kinh đô sau này.

Bên cạnh việc chinh phục các bộ tộc Nữ Chân, Nỗ Nhĩ Cáp Xích còn mở rộng việc quy phục các bộ tộc Mông Cổ. Bấy giờ, Mông Cổ hoàn toàn tan rã thành các bộ lạc, và thường xuyên bị Nhà Minh đánh phá, dù họ vẫn duy trì danh nghĩa hoàng đế Nguyên. Với tư cách là hậu duệ của Möngke Temür, mang dòng máu Mông - Mãn, cộng với chiến tích chinh phục, Nỗ Nhĩ Cáp Xích dễ dàng được nhiều bộ tộc Mông Cổ quy phục. Năm 1606, ông được người Mông Cổ tôn xưng danh hiệu Kundulun Khan (âm Hán Việt: Côn Đô Luân Hãn).

Năm 1615, Lý Thành Lương chết. Cả một vùng Liêu Đông, một phần Mông Cổ lọt vào tầm khống chế của ông. Năm 1616, khi 57 tuổi, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lên ngôi Đại Hãn với hiệu là geren gurun-be ujire genggiyen han (chữ Mãn: ᡤᡝᡵᡝᠨ
ᡤᡠᡵᡠᠨ ᠪᡝ
ᡠᠵᡳᡵᡝ
ᡤᡝᠩᡤᡳᠶᡝᠨ
ᡥᠠᠨ Phúc Dục Biệt Quốc Anh Minh Hoàng đế, nghĩa là "Vị Hãn anh minh mang hạnh phúc cho cả quốc gia")[21], ở thành Hách Đồ A Lạp (nay là Tân Tân, Liêu Ninh), tuyên bố dựng nước, lấy quốc hiệu Đại Kim, mà sử Trung Quốc gọi là Hậu Kim. Ông cũng tự đặt họ cho mình là Aisin-Gioro (Ái Tân Giác La), trong tiếng Nữ Chân cổ có nghĩa là Kim (Aisin Gurun), hàm ý ông kế thừa chính thống đế chế Kim quốc. Từ đây, con cháu trực hệ của ông đều lấy họ là Aisin-Gioro. Ông theo phép Nhà Minh, đặt niên hiệu là Thiên Mệnh (chữ Hán: 天命, chữ Mông Cổ: Тэнгэрийн Сүлдэт, chữ Mãn:ᠠᠪᡴᠠᡳ
ᡶᡠᠯᡳᠩᡤᠠ âm Mãn: abkai fulingga).